Viêm mủ ngoài màng tim là một bệnh lý khá phổ biến và nặng. Biến chứng tức thời là chèn ép tim cấp phải được chẩn đoán và xử trí cấp cứu kịp thời tránh đe dọa tính mạng trẻ.
Nguyên nhân là do các vi khuẩn gây mủ, đặc biệt là tụ cầu vàng và phế cầu xâm nhập khoang màng tim
Contents
Bệnh viêm mủ ngoài màng tim là gì?
Viêm mủ màng ngoài tim là tình trạng khoang màng ngoài tim bị viêm nhiễm, mất bóng và thường chứa một lượng bất thường dịch dạng mủ có thể gây cản trở chức năng tống máu của tim ít hay nhiều tùy thuộc vào tốc độ tích lũy và khối lượng dịch.
Đây là một bệnh cảnh rất phổ biến và nặng nhất của tràn dịch màng ngoài tim mà nguyên nhân là do các vi khuẩn gây mủ, đặc biệt là tụ cầu vàng và phế cầu xâm nhập khoang màng tim theo đường máu hoặc đường kế cận, gây tổn thương viêm dưới dạng mủ ở tại khoang màng ngoài tim.
Việc điều trị nguyên nhân cần được tiến hành triệt để, phối hợp chặt chẽ với điều trị toàn thân và kháng sinh thích hợp để tránh dẫn đến viêm dày dính màng ngoài tim co thắt, một biến chứng muộn đòi hỏi phải xử trí ngoại khoa bóc tách màng ngoài tim.
Nguyên nhân gây viêm mủ ngoài màng tim là gì?
Bệnh phổ biến ở các nước chậm phát triển, điều kiện hiểu biết sức khỏe chưa đầy đủ, không thường xuyên vệ sinh cơ thể, vệ sinh ngoài da kém. Đa số các trường hợp xuất hiện trong bệnh cảnh nhiễm khuẩn huyết do tụ cầu, viêm phổi do tụ cầu hoặc phế cầu, viêm da mủ hoặc áp-xe cơ do tụ cầu. Tuy nhiên, nhiều trường hợp xuất hiện như một biểu hiện nhiễm khuẩn tiên phát tại khoang màng tim, gây khó khăn trong việc chẩn đoán.
Khi mắc bệnh, bác sĩ Trường Cao Đẳng Dược Sài Gòn cho biết bệnh nhân có biểu hiện toàn thân, điển hình và nổi bật là tình trạng nhiễm khuẩn, nhiễm độc phối hợp với tình trạng khó thở do tim bị chèn ép. Trong trường hợp bệnh kéo dài, suy dinh dưỡng thường xảy ra rất sớm. Ngoài ra còn có thể gặp các biểu hiện hoặc những triệu chứng của bệnh nguyên nhân và là đường của nhiễm khuẩn màng tim, đặc biệt là các nhiễm khuẩn da và phần mềm (chốc lở, mụn nhọt, viêm tổ chức da, viêm cơ), viêm xương, viêm mủ khớp, viêm phổi.
Tìm hiểu bệnh cùng với các chuyên gia Cao Đẳng Dược Sài Gòn
Biểu hiện của viêm mủ ngoài màng tim là gì?
Trên lâm sàng có thể gặp các biểu hiện của tràn dịch màng ngoài tim khác nhau tùy theo giai đoạn diễn biến bệnh và mức độ nặng của tràn dịch.
Ở giai đoạn khởi phát, chủ yếu là triệu chứng bệnh nguyên (ổ bệnh nguyên phát), kèm theo mệt mỏi, đau ở vùng trước tim và tiếng cọ màng tim. Giai đoạn này có thể kéo dài từ vài giờ đến nhiều ngày.
Ở giai đoạn toàn phát, bệnh thường có đầy đủ các biểu hiện sau đây do tràn dịch màng ngoài tim như đau vùng trước tim, đau tăng khi nằm ngửa, dịu đi khi ngồi cúi ra trước, ho, khó thở, tím tái, ứ đọng ngoại vi, phù, gan to, tĩnh mạch cổ nổi, đái ít, mạch nhanh, nhỏ, ngực lặng (không nhìn thấy tim đập). Khi khám thấy tiếng tim mờ (xa xăm), mạch đảo là dấu hiệu đặc trưng của chèn ép tim cấp. Có thể chỉ biểu hiện kín đáo là mạch bị yếu đi rõ rệt ở thì thở vào. Nhưng chắc chắn và rõ rệt nhất chính là sự thay đổi huyết áp. Bình thường huyết áp tối đa lúc thở vào sâu thấp hơn lúc ngừng thở là 10mmHg, khi thấp hơn 10-20 là nghi ngờ, thấp hơn 20 là chắc chắn là có tràn dịch màng tim (nếu bệnh nhân không thở máy, không mắc bệnh hen và khí phế thũng). Hiện tượng này xảy ra do thất phải nở to khi thở vào chèn ép tâm thất trái đang bị dịch màng ngoài tim hạn chế khả năng giãn nở nên không hút đủ lượng máu thông thường để tống ra ngoại biên. Mạch đảo là dấu hiệu rất quan trọng trong bệnh cảnh tràn dịch màng ngoài tim, chứng tỏ đang có ép tim cấp, còn có thể gặp trong viêm dày dính màng ngoài tim, hen phế quản nặng, bệnh cơ tim hạn chế, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, sốc giảm thể tích.
Ngoài ra, bác sĩ Trường Cao Đẳng Dược Sài Gòn còn cho biết thêm đối với nhiều trường hợp khi làm các xét nghiệm thấy có những biểu hiện nhiễm khuẩn toàn thân do các ổ bệnh tiên phát hoặc do nung mủ màng ngoài tim. Đó là biểu hiện của phản ứng viêm cấp tính, bao gồm: số lượng bạch cầu và tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính tăng cao trong máu ngoại vi, protein C phản ứng tăng cao, tốc độ lắng máu tăng cao, cấy máu đôi khi tìm thấy vi khuẩn gây bệnh, đa số là tụ cầu, nhưng có thể gặp liên cầu, Hemophilus Influenzae và một số vi khuẩn hiếm gặp khác.
Cấy mủ tại các ổ tổn thương nguyên phát ở da, cơ, xương hoặc khớp có thể phát hiện được vi khuẩn gây tràn dịch màng ngoài tim. Và những biểu hiện cận lâm sàng khác do tràn dịch màng ngoài tim cấp tính.