PHÒNG NGỪA VÀ QUẢN LÝ NHIỄM VI-RÚT VIÊM GAN B Ở NGƯỜI LỚN NHIỄM HIV

Đồng nhiễm HIV và viêm gan B có chung đường lây truyền và cả hai bệnh nhiễm trùng thường được chẩn đoán trên cùng một bệnh nhân. Cùng trường Cao đẳng Dược Sài Gòn xem xét hướng dẫn về phòng ngừa và quản lý nhiễm vi-rút viêm gan B (HBV) ở người lớn nhiễm HIV đã được Viện AIDS của Bộ Y tế Bang New York 

XÉT NGHIỆM SÀNG LỌC

Các bác sĩ lâm sàng nên sàng lọc tất cả bệnh nhân nhiễm HIV về nguy cơ nhiễm HBV, tiền sử tiêm chủng và nhiễm trùng khi nhập viện chăm sóc y tế và thực hiện xét nghiệm cơ bản để xác định tình trạng miễn dịch với HBV. Xét nghiệm ban đầu trong phòng thí nghiệm bao gồm xét nghiệm huyết thanh tìm HBsAg, anti-HBc tổng số và anti-HBs. Bệnh nhân có nồng độ anti-HBs ≥10 IU/mL được coi là miễn dịch với HBV

CHẨN ĐOÁN

Đối với những bệnh nhân có kết quả xét nghiệm sàng lọc HBsAg dương tính, nên thực hiện các xét nghiệm tiếp theo trong phòng thí nghiệm để xác nhận tình trạng HBV. Nếu một bệnh nhân nhiễm HIV và tình trạng HBsAg không rõ xuất hiện các dấu hiệu hoặc triệu chứng của viêm gan cấp tính (nghĩa là ALT tăng cao), bác sĩ lâm sàng nên thực hiện xét nghiệm HBsAg, anti-HBc IgM, HBeAg, anti-HBe và HBV DNA để xác định chẩn đoán.

Nhiễm HBV cấp tính: Sau khi tiếp xúc, HBV xâm nhập vào máu và tuần hoàn đến gan. Thời gian sau khi tiếp xúc với sự khởi đầu của men gan bất thường trung bình là 60 ngày (khoảng 40 đến 90 ngày) và sự khởi phát của bệnh vàng da trung bình là 90 ngày (khoảng 60 đến 150 ngày). Nhiễm HBV cấp tính không có triệu chứng ở khoảng 70% bệnh nhân và <1% bệnh nhân bị suy gan tối cấp. Khi các triệu chứng biểu hiện, chúng có thể bao gồm chán ăn, khó chịu, buồn nôn, nôn, đau khớp và đau vùng bụng trên bên phải. Các triệu chứng thường hết trong vòng 4 tuần, với mức độ transaminase bình thường hóa trong 2 đến 8 tuần.

Nhiễm HBV mạn tính: Nhiễm HBV là một bệnh năng động và các cá nhân có thể chuyển qua các giai đoạn lâm sàng xác định với mức độ hoạt động ALT huyết thanh, HBV DNA và kháng nguyên HBV thay đổi.

PHÒNG NGỪA LÂY TRUYỀN

HBV có khả năng lây truyền qua tiếp xúc với máu và dịch cơ thể cao hơn đáng kể so với HIV và cần được đánh giá thường xuyên hơn đối với các hành vi làm tăng nguy cơ lây truyền HIV/HBV. Cần khuyến nghị bảo vệ hàng rào, bao gồm bao cao su latex hoặc polyurethane, để giảm nguy cơ lây truyền qua đường tình dục

Tất cả những người tiêm chích ma túy đang hoạt động nên được kê đơn bơm kim tiêm sạch và được giới thiệu đến điều trị sử dụng chất kích thích , chẳng hạn như thay thế chất dạng thuốc phiện.

TIÊM CHỦNG CƠ BẢN

Các giảng viên khoa Y trường Cao đẳng Dược Sài Gòn khuyến cáo nên tiêm vắc-xin HBV với sê-ri vắc-xin 3 liều Engerix-B hoặc Recombivax HB (A1) hoặc sê-ri vắc-xin Heplisav-B 2 liều (A2†) cho bệnh nhân có kết quả xét nghiệm HBsAg, anti-HBs và anti-HBs âm tính. -HBc.

Các bác sĩ lâm sàng không nên trì hoãn việc tiêm vắc-xin HBV ban đầu ở những bệnh nhân có số lượng CD4 <200 tế bào/mm 3 có nguy cơ nhiễm HBV.

Các bác sĩ lâm sàng nên lặp lại xét nghiệm anti-HBs sau 4 đến 16 tuần, dựa trên lịch thăm khám của bệnh nhân, sau khi hoàn thành loạt tiêm chủng để đảm bảo khả năng miễn dịch (anti-HBs ≥10 mIU/mL).

Ở bệnh nhân có HBsAg âm tính, anti-HBs âm tính và kết quả xét nghiệm anti-HBc dương tính (kháng HBc dương tính riêng biệt), bác sĩ lâm sàng nên tiêm vắc-xin HBV 1 lần. (A2)

Lặp lại xét nghiệm anti-HBs 8 tuần sau khi tiêm chủng, và nếu hiệu giá anti-HBs <100 mIU/mL, hoàn thành loạt vắc-xin HBV và lặp lại xét nghiệm anti-HBs 8 tuần sau lần tiêm vắc-xin cuối cùng.

Nếu từ chối tiêm vắc-xin hoặc nếu xét nghiệm anti-HBs tiếp theo không thể đảm bảo, hãy thực hiện xét nghiệm HBV DNA để đánh giá nhiễm HBV tiềm ẩn.

Các bác sĩ lâm sàng không nên trì hoãn việc tiêm vắc-xin ban đầu hoặc tiêm nhắc lại ở những bệnh nhân nhiễm HIV đang mang thai chưa có miễn dịch với HBV.

tái chủng ngừa

Ở những bệnh nhân đã được tiêm vắc-xin trước đây có nồng độ kháng HBs <10 mIU/mL (không đáp ứng với vắc-xin), các bác sĩ lâm sàng nên khuyến nghị tiêm phòng lại bằng loạt vắc-xin Heplisav-B hoặc liều gấp đôi của loạt vắc-xin đã tiêm trước đó.

ĐÁNH GIÁ BỆNH GAN

Trước khi bắt đầu điều trị HBV ở bệnh nhân nhiễm HIV, bác sĩ lâm sàng nên khám sức khỏe toàn diện và hỏi bệnh sử, bao gồm cả việc sử dụng thuốc gây độc cho gan (A*); đánh giá xơ hóa không xâm lấn (A2†); siêu âm cơ bản cho HCC [a] (A2†); và các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm sau: CBC, albumin, bilirubin, phosphatase kiềm, PT/INR, ALT, AST và bảng chuyển hóa cơ bản.

Các bác sĩ lâm sàng nên giới thiệu bệnh nhân đồng nhiễm HIV/HBV và xơ gan đến bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa hoặc bác sĩ chuyên khoa gan để đánh giá và quản lý các biến chứng của tăng áp lực tĩnh mạch cửa.

Ở những bệnh nhân đồng nhiễm HIV/HBV và xơ gan, các bác sĩ lâm sàng nên sàng lọc HCC bằng siêu âm 6 tháng một lần.

(Bài viết là tài liệu nội bộ dành cho sinh viên Cao đẳng Dược, Cao đẳng Điều dưỡng, Y sĩ đa khoa của Nhà trường tham khảo)