HỘI CHỨNG DIGEORGE

Hội chứng DiGeorge (DGS) là một rối loạn bẩm sinh với biểu hiện kiểu hình rộng, chủ yếu là do mất đoạn vi thể của nhiễm sắc thể 22 tại một vị trí được gọi là 22q11.2. Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn đưa ra các thông tin về bệnh lý:

CĂN NGUYÊN

Khoảng 90% trường hợp DGS là kết quả của việc mất đoạn nhiễm sắc thể 22, cụ thể hơn là trên nhánh dài (q) tại locus 11.2 (22q11.2). Hầu hết các đột biến này phát sinh de novo mà không có bất thường di truyền nào được ghi nhận trong bộ gen của cha mẹ của những đứa trẻ mắc DGS. Các nhà nghiên cứu đã xác định được hơn 90 gen khác nhau tại locus này, một số gen mà họ đã nghiên cứu trên mô hình chuột. Nghiên cứu nhiều nhất về các gen này là yếu tố phiên mã hộp T 1 (TBX1), tương quan với các khiếm khuyết nghiêm trọng trong sự phát triển của tim, tuyến ức và tuyến cận giáp của mô hình chuột. TBX1 cũng tương quan với các dị thường mạch máu thần kinh, có thể là nguyên nhân gây ra các bất thường về hành vi và phát triển được thấy ở DGS.

SINH LÝ BỆNH

DGS là kết quả của quá trình xóa vi mô 22q11.2, mã hóa hơn 90 gen. Bệnh nhân mắc DGS hiển thị một loạt các kiểu hình và những phát hiện phổ biến nhất bao gồm dị thường tim, hạ canxi máu và tuyến ức giảm sản.

Trên cơ sở di truyền, TBX1 có mối tương quan với các kiểu hình nổi bật nhất đặc trưng của DGS. Thất bại trong quá trình phát triển phôi thai của các túi hầu họng, được điều khiển bởi TBX1, dẫn đến sự vắng mặt hoặc giảm sản của tuyến ức và tuyến cận giáp. Các mô hình loại bỏ TBX1 của chuột và cá ngựa vằn đã được nghiên cứu để hiểu cơ sở phôi học của bệnh này. Ví dụ, ở chuột, sự vắng mặt của TBX1 gây ra các khiếm khuyết nghiêm trọng về hầu họng, tim, tuyến ức và tuyến cận giáp cũng như rối loạn hành vi.  Hơn nữa, việc loại bỏ cá ngựa vằn đã chứng minh các khiếm khuyết ở tuyến ức và vòm họng cũng như dị tật ở tai và tuyến ức.

SỰ ĐÁNH GIÁ

Giảng viên khoa Y trường Cao đẳng Dược Sài Gòn đưa ra chẩn đoán xác định về DGS ở những người có sự mất đoạn siêu nhỏ của nhiễm sắc thể 22 tại locus 22q11.2. Các đánh giá cổ điển về các bất thường di truyền, chẳng hạn như thể ba nhiễm sắc thể, bao gồm cả kỹ thuật dải Giemsa, không có khả năng tiết lộ các vi mất đoạn. Do đó, các microdeletion chịu trách nhiệm cho DGS được phát hiện bằng huỳnh quang trong lai tạo tại chỗ (FISH), khuếch đại đầu dò phụ thuộc vào hệ thống ghép kênh (MLPA), mảng đa hình nucleotide đơn (SNP), microarray lai tạo gen so sánh (CGH) hoặc phản ứng chuỗi polymerase định lượng (qPCR) . Tính sẵn có và chi phí của các kỹ thuật này có thể làm chậm quá trình chẩn đoán, đặc biệt là ở những nơi có nguồn lực hạn chế.

Bệnh nhân được chẩn đoán hoặc nghi ngờ mắc DGS nên được đánh giá toàn diện, đặc biệt nếu có sự thiếu hụt miễn dịch hoặc tim mạch đe dọa tính mạng. Các thử nghiệm sau đây cần được xem xét:

Siêu âm tim để đánh giá các bất thường đồng thời

Công thức máu toàn bộ với sự khác biệt

Bảng con tập hợp tế bào lympho T và B

Dòng tế bào học để đánh giá tiết mục tế bào T

mức độ globulin miễn dịch

Hiệu giá vắc xin để đánh giá đáp ứng với vắc xin

Nồng độ canxi và phốt pho ion hóa trong huyết thanh

Nồng độ hormone tuyến cận giáp

X-quang ngực để đánh giá bóng tuyến ức

Siêu âm thận cho các dị tật thận và sinh dục tiết niệu có thể xảy ra

Huyết thanh creatinine

TSH

Xét nghiệm thiếu hụt hormone tăng trưởng

Điều quan trọng cần lưu ý là phổ rộng về mức độ nghiêm trọng của bệnh khiến việc đánh giá DGS trở nên đặc biệt khó khăn. Các trường hợp liên quan đến khiếm khuyết đáng kể về tim, tuyến ức và sọ mặt dễ nhận biết hơn so với những trường hợp thiếu các đặc điểm nghiêm trọng. Việc thực hiện các nghiên cứu bộ gen tiên tiến và công nghệ nhận dạng khuôn mặt trong y học hiện đại có thể hỗ trợ chẩn đoán và đánh giá bệnh nhân DGS hiệu quả hơn.

ĐIỀU TRỊ / QUẢN LÝ

Điều trị và quản lý DGS yêu cầu chăm sóc chuyên nghiệp chuyên sâu:

May mắn thay, nhiều bệnh nhân mắc DGS bị suy giảm miễn dịch nhẹ, chức năng tế bào T được bảo tồn mặc dù sản xuất tế bào T giảm. Nên theo dõi thường xuyên với một nhà miễn dịch học có kinh nghiệm trong điều trị suy giảm miễn dịch nguyên phát. Suy giảm miễn dịch ở trẻ sơ sinh với DGS hoàn toàn (cDGS) đòi hỏi phải quản lý bằng cách ly, IgG tiêm tĩnh mạch, điều trị dự phòng bằng kháng sinh và ghép tế bào tuyến ức hoặc tế bào tạo máu (HSCT).

Các phác đồ tiêm chủng, tiêm nhắc lại, immunoglobulin tiêm tĩnh mạch và điều trị dự phòng bằng kháng sinh nên xoay quanh các giá trị xét nghiệm của từng bệnh nhân. Hiệu giá kháng thể đối với vắc-xin đã sử dụng nên được đánh giá lại sau mỗi sáu đến mười hai tháng để xác định sự cần thiết của việc tiêm phòng lại. Có tranh cãi xung quanh việc sử dụng vắc-xin sống, bao gồm vắc-xin MMR, bại liệt uống và vắc-xin rotavirus.

(Bài viết là tài liệu nội bộ dành cho sinh viên Cao đẳng Dược, Cao đẳng Điều dưỡng, Y sĩ đa khoa của Nhà trường tham khảo)