Hướng dẫn cách học, làm tốt phần đọc hiểu, bài thi Ngữ văn THPT quốc gia

Phần đọc hiểu thường chiếm 3/10 điểm trong bài thi Ngữ văn, Kỳ thi THPT quốc gia. Dưới đây là hướng dẫn để học sinh ôn tập và làm tốt phần nội dung bài thi này

Hướng dẫn làm tốt phần đọc hiểu môn ngữ văn kỳ thi THPT Quốc gia

Hướng dẫn làm tốt phần đọc hiểu môn ngữ văn kỳ thi THPT Quốc gia

Nắm chắc lý thuyết

Điều đầu tiên, giáo viên cần cung cấp kiến thức cơ bản về phần đọc – hiểu và yêu cầu học sinh phải nắm vững. Bước này xem như phần lý thuyết; có nắm lý thuyết, học sinh mới vận dụng được vào bài tập.

Nếu một học sinh khi nhắc đến phong cách ngôn ngữ hoặc phương thức biểu đạt,… mà hoàn toàn không biết đó là gì, hoặc không kể tên ra được thì không thể giải quyết bài tập.

Việc cung cấp kiến thức không nên chi tiết dài dòng như một bài học mới mà cố gắng lựa chọn những vấn đề trọng tâm, cơ bản nhất dạy cho học sinh cách nhận diện, phân biệt; cần trả bài phần lý thuyết để học sinh nắm vững kiến thức.

Hướng dẫn học sinh cách trả lời cụ thể một số dạng câu hỏi

Trong một đề đọc hiểu có 4 câu hỏi với các mức độ: nhận biết – thông hiểu – vận dụng. Cụ thể các giảng viên Trường Cao Đẳng Dược Sài Gòn chia sẻ như sau:

Câu 1 là câu thường kiểm tra kiến thức tiếng Việt và văn học ở mức độ nhận biết. Do vậy sẽ có các đơn vị kiến thức tiếng Việt và văn học thường gặp và học sinh cần chú ý như: Phương thức biểu đạt (tự sự, nghị luận, biểu cảm, miêu tả…), phong cách ngôn ngữ (báo chí, sinh hoạt, nghệ thuật, chính luận,…), cách thức thức diễn đạt (diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp,…), đề tài, thể thơ,…

Câu 2 là câu kiểm tra năng lực nắm bắt thông tin hoặc năng lực thông hiểu của người đọc. Ở câu này, người học chú ý câu hỏi dạng như: “Theo tác giả, (từ khóa/khái niệm/ý kiến…) là gì?”, hay “Anh/ Chị hiểu thế nào về (từ khóa/khái niệm/ý kiến…) có trong văn bản trên?”…

Câu 3 là câu kiểm tra năng lực thông hiểu của người đọc. Thường gặp các dạng câu hỏi như: Vì sao tác giả cho rằng (ý kiến)? Chỉ ra và cho biết tác dụng của biện pháp tu từ (thường là so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, điệp từ, điệp ngữ, liệt kê,…)

Câu 4 là câu kiểm tra năng lực vận dụng của người học (khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng vào thực hành). Các dạng câu hỏi thường gặp là: “Thông điệp nào có ý nghĩa nhất với anh/chị?, hay “Bài học anh/chị rút ra từ đoạn trích trên là gì?”…

Tất cả các kiến thức ở trên đều thuộc về lý thuyết nhưng nó rất quan trọng vì có nắm vững lý thuyết học sinh mới trả lời đúng câu hỏi dạng nhận biết; có nắm vững kỹ năng làm bài học sinh mới trả lời đúng trọng tâm câu hỏi. Không phải nói đọc hiểu là muốn đọc và muốn hiểu như thế nào cũng có điểm.

Hướng dẫn kĩ năng làm bài

Các kĩ năng làm bài bao gồm: kĩ năng đọc đề, phân tích đề; kỹ năng làm bài.

Theo đó, với kĩ năng đọc đề và phân tích đề: Đa số học sinh hầu như không chú trọng điều này, đọc đề ít khi chịu suy nghĩ kĩ. Giáo viên phải hướng dẫn để học sinh có khả năng nhận biết đề như một yêu cầu bắt buộc.

Nhận biết rõ ngữ liệu trích dẫn trong đề là ngữ liệu được trích ở đâu (sách giáo khoa, báo chí, tác phẩm văn học ngoài sách, hoặc các nguồn khác…); thể loại văn bản được trích dẫn là gì (văn xuôi, thơ, các loại văn bản khác); văn bản được trích dẫn thuộc phong cách ngôn ngữ nào; có tất cả mấy câu hỏi trong yêu cầu, mỗi câu hỏi có mấy ý cần trả lời; nội dung yêu cầu của từng câu hỏi ra sao, mỗi nội dung đó cách trả lời như thế nào?….

Kỹ năng làm bài: Về hình thức, chữ viết phải rõ ràng, cách trả lời phải theo từng yêu cầu đề, không được trả lời chung chung. Mỗi câu phải tách bạch bằng việc đánh số câu tương ứng với số câu trong đề, trả lời trọn vẹn những ý đã hỏi.

Khi hết câu phải xuống đoạn đánh số và trả lời câu hỏi khác, không viết dài dòng mà chỉ trả lời ngắn gọn, đúng trọng tâm. Tùy theo câu hỏi mà có thể trả lời bằng một đoạn văn hoặc bằng những ý gạch đầu dòng cho tương ứng.

Về nội dung phải trả lời đúng với yêu cầu câu hỏi, sát nghĩa, sâu và mang tính khoa học. Không được hỏi một đằng trả lời một nẻo, hỏi hai vấn đề nhưng chỉ trả lời một, cũng không trả lời câu này chưa xong lại sang câu khác.